Trong bất cứ hình thái phát triển nào, khi đến một mức độ nào đó. Nó sẽ tự đào thải đi xuống hoặc chuyển hóa lên một dạng phát triển khác tốt hơn, cao hơn. Với lịch sử phát triển âm nhạc cũng như vậy. Vào thời kỳ đầu, trong các nhà thờ tu viện thường chỉ có một đường giai điệu duy nhất phát lên do nhiều người cùng hát. Nhưng qua thời gian với sự phát triển, một hình thái mới được hình thành dựa trên những lý thuyết cơ bản lúc đầu của âm nhạc.
Bằng cách thêm vào một đường giai điệu ở quảng 4 hay quảng 5, hát song song với một giọng chính. Có khi người ta còn dung một đường giai điệu trên cả một octave (quảng tám). Việc sử dụng các đường giai điệu thêm vào lúc đầu chỉ được sử dụng ở quảng trên của giọng chính thì một thời gian sau họ sử dụng luôn cả quảng dưới để tạo nên hòa âm (harmony) – một khái niệm hòa điệu âm thanh cơ bản ở thời điểm sau đó – cho bài hát của mình.
Loại hình này gọi là Organum là hình thái phát triển trung gian giữa âm nhạc đơn âm monophony ban đầu và sự phát triển phức tạp polyphony lúc sau. Organum xuất hiện lần đầu vào thời kỳ Trung Cổ.
https://www.youtube.com/watch?v=Vt5Nsq4ejJs
Không còn nhiều văn bản chứng tỏ sự phát triển đầu tiên của Organum nhưng chúng ta có thể đi qua sơ lược lịch sử của nó như sau.
Vào thời kỳ đầu của Organum
Theo nhiều nguồn tin thì Organum đầu tiên hay còn được gọi là “Organum hoa mỹ” đã đưa ra luật biểu diễn là Musica enchiriadis được đóng góp bởi Hucbald of St. Amand.
Hình thái lâu nhất về sự truyền dạy Organum được tìm thấy bởi Scolica and the Bamberg Dialogues, song song với Musica enchiriadis.
Lịch sử phát triển thời kỳ đầu Organum không thể không nhắc đến nếu thiếu đi sự cách tân của 2 nhà soạn nhạc Léonin and Pérotin. Đây là 2 nhà soạn nhạc vĩ đại đã đánh dấu sự phát triển về giai điệu của Organum.
Những luận chứng ban đầu về Organum
Enchiriadis Musica vẫn chưa tìm đươc nguồn gốc chính xác của nó. Được xem như là vô danh vào thế kỷ thứ 9. Đây được coi là lần đầu tiên sự phát triển của âm nhạc tiến lên một bậc cao hơn kể từ khi xuất hiện loại hình monophony và là cây cầu nối tới loại hình polophony. Luận chứng này một số người cho là của Hucbald, nhưng có một số nhà sử học cho là của Odo Cluny (879-942).
Luận về thuyết âm nhạc này đã được lưu hành rộng rãi trong các bản thảo thời trung cổ, thường kết hợp với Boethius De Institutione Musica bao gồm 19 chương.
Calixtinus Codex là một bản thảo từ thế kỷ thứ 12 trước đây là do Đức Giáo hoàng Callixtus II, nhưng có vài luận chứng được cho là của một học giả người Pháp tên Aymeric Picaud lấy bút danh là Scriptor I.
Codex còn có cách gọi khác là Sancti Liber Jacobi, hoặc Sách Saint James. Bộ sưu tập bao gồm các bài giảng và các văn bản phục vụ như cầu âm nhạc. Cuốn sách này đã bị đánh cắp vào ngày 03 tháng 7 năm 2011 và được tìm thấy gần như chính xác một năm sau đó vào ngày 4 tháng Bảy năm 2012.
Troper Winchester có lẽ là bộ sưu tập lớn lâu đời nhất ở châu Âu. Nó bao gồm hai bản thảo tiếng Anh vào khoảng năm 1000. Người ta có thể được tìm thấy ở Oxford, trong Thư viện Bodleian (MS Bodley 775), một ở Corpus Christi, Cambridge (MS473), nhưng đã được sao chép và được ban đầu sử dụng tại Winchester Cathedral.
Trong phiên bản thứ 2 của bản thảo này có đến hơn 160 ví dụ về organum gồm 1 giọng chính và 1 bè được viết bởi Wulfstan the Cantor Nhưng sau đó có người lại cho rằng là không phải vì cuốn sách được viết sau khi ông đã chết.
Âm nhạc trong troper từ lâu đã được coi là thể không rõ, chỉ có cái thô sơ của cao độ và thời gian bằng cách sử dụng của một hình thức các ký hiệu được gọi là neumes và tonary, là 2 ký hiệu được sử dụng trong thời gian đầu của âm nhạc ngũ cung ở châu Âu. Troper cũng rất đáng chú ý vì có chứa toàn bộ vở kịch phục vụ hoàng gia quaeritis Quem với âm nhạc. Đây là kiểu chơi thời Trung cổ lâu đời nhất còn tồn tại với âm nhạc, đầu thế kỷ thứ mười bản thảo cũng như Tiêu đề troper đề cập đến thực tế, phổ biến trong thời Trung Cổ của việc thêm một phần bổ sung, hoặc ngụ ý một plainchant hoặc phần plainchant, do đó làm cho nó thích hợp cho một dịp đặc biệt hoặc lễ hội.
Những hình thái phát triển từ Organum ban đầu.
Free Organum
được phát hiện lần đầu tiên vào khoảng thời gian 1020-1050. Cách thức sử dụng bằng cách phát triển song song một giọng cao tiến lên trong khi giọng tenor đang giữ một nốt nhạc. Có đôi khi sự phát triển song song của giọng này lại đi theo một hướng khác. Đây là tiền đề để phát triển Harmony và Polophony sau này.
Florid organum, melismatic organum
Vào cuối thế kỷ 12, tu viên Notre Dame ở Paris mở ra một trường dạy học âm nhạc, đây cũng là nơi phát triển của hể thống giai điệu. Như đã nói ở trên, trường học này có 2 nhà soạn nhạc nổi tiếng đó là Léonin and Pérotin hai người đã cung cấp rất nhiều kỹ thuật sáng tác mới.
Về cơ bạn Florid Organum là giọng chính sẽ được hát từ khoảng 2 đến 6 nốt nhưng được hát đè lên giọng tenor. Saint Martial organum và Paris organum duplum cũng có cùng nguyên lý như thế, nhưng chỉ khác một chút về hình thái.
Cách phân biêt Monophony, Oranum và polyphony
Nói một cách đơn giản thì monophony là cách sử dụng âm nhạc đồng âm khi có rất nhiều người hát cùng một nốt nhạc. Sau đó, nó được phát triển một tầng cao hơn là organum. Organum sử dụng 1 giọng chính và một giọng bè ở quảng thứ 4 hay quảng thứ 5. Cả 2 cùng hát song song và không có sự thay đổi về giai điệu, cũng như tiết tấu.
Polophony thi cũng sử dụng giọng chính và có thể trên 2 giọng bè trở lên. Nhưng có sự thay đổi về tiết tấu và giai điệu của các giọng bè để tạo sự khác biết. Vị dụ giọng chính có thể hát 4 nốt. Giọng bè có thể chỉ là 1 nốt được hát trên nển quảng 4 hay quảng 5 của giọng chính. Về cơ bản giọng bè này phụ thuộc vào giọng chính và không thể tách riêng ra thành một bài nhạc độc lập được.
Hình ảnh: Google
Link tham khảo: Wikipedia