Âm nhạc Baroque là một phong cách âm nhạc nghệ thuật phương Tây từ khoảng 1600 đến năm 1750 sau công nguyên. Thời kì này tiếp sau thời kì Phục Hưng, và nằm chuỗi thời kì âm nhạc cổ điển. Từ “Baroque” xuất phát từ Barroco tiếng Bồ Đào Nha, có nghĩa là hình dạng ngọc trai để mô tả tiêu cực âm của âm nhạc bố trí công phu và mang nặng tính cầu kì, trang trí của thời kì này. Thời kì “Baroque” cũng được sử dụng tên chung với nền kiến trúc cùng thời kì.
Âm nhạc Baroque tạo thành một phần quan trọng của “nhạc cổ điển” canon, đang được nghiên cứu rộng rãi, trình diễn, và lắng nghe. Nhạc sĩ của thời đại Baroque bao gồm Johann Sebastian Bach, George Frideric Handel, Alessandro Scarlatti, Domenico Scarlatti, Antonio Vivaldi, Henry Purcell, Georg Philipp Telemann, Jean-Baptiste Lully, Arcangelo Corelli, Tomaso Albinoni, François Couperin, Denis Gaultier, Claudio Monteverdi, Heinrich Schutz, Jean-Philippe Rameau, Jan Dismas Zelenka, và Johann Pachelbel.
Thời kì Baroque mang đậm chất sáng tạo của sự thuần khiết. Trong suốt thời kì này, sáng tác và trình diễn sử dụng nhiều các buổi hòa nhạc được trau chuốt rất công phu, phức tạp, thực hiện những thay đổi trong các nốt nhạc và phát triển kỹ thuật chơi nhạc cụ mới. Âm nhạc Baroque mở rộng quy mô, phạm vi và phức tạp của các hoạt động chơi nhạc cụ và các thể loại âm nhạc như là Opera, Cantata, Oratorio, Concerto và Sonata. Nhiều thuật ngữ âm nhạc và các khái niệm ở thời kì này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay.
Nguyên Bản
- Lịch sử nghệ thuật âm nhạc châu Âu.
Thuật ngữ baroque thường được sử dụng bởi các sử gia âm nhạc để mô tả một loạt phong cách hình thành từ khu vực địa lý rộng lớn, chủ yếu là ở châu Âu kéo dài khoảng 150 năm.
Mặc dù từ lâu nó đã được biết đến như một thuật ngữ quan trọng đầu tiên áp dụng cho kiến trúc, trong thực tế, nó xuất hiện trước đó trong tài liệu tham khảo về âm nhạc của một ẩn danh, nhận xét châm biếm trong buổi ra mắt của Hippolyte et Aricie Rameau vào tháng 10 năm 1733. Được in trong Mercure de France năm 1734. Các nhà phê bình ngụ ý rằng sự mới lạ trong opera này là “du barocque” phàn nần rằng âm nhạc thiếu giai điệu mạch lạc, được lấp đầy với những âm điệu bất hòa chói tai, liên tục thay đổi nốt nhạc và nhanh chóng chạy qua các nhạc cụ thành phần.
Việc áp dụng hệ thống sử dụng thuật ngữ “baroque” trong âm nhạc để dành cho thời kì này cũng chỉ phát triển gần đây. Năm 1919, Curt Sachs trở thành người đầu tiên áp dụng trong 5 đặc điểm của lý thuyết hệ thống âm nhạc của Baroque Heinrich Wolfflin. Các nhà phê bình nhanh chóng đặt câu hỏi về nỗ lực để chuyển vị thể loại này trong âm nhạc. Tuy nhiên trong quý thứ 2 của thế kỉ 20, một nỗ lực độc lập bởi Manfred Bukofzer (tại Đức, sau đó nhập cư tại Mỹ) và Suzanne Clercx-Lejeune (Bỉ) đã sử dụng độc lập, phân tích kĩ thuật hơn là so sánh trừu tượng để tránh những thay thế của lý thuyết dựa trên nghệ thuật tạo hình và văn học vào âm nhạc. Tất cả những nổ lực này dẫn đến bất đồng về ranh giới về thời gian của thời kì này, đặc biệt liên quan đến khi nào nó hình thành. Trong tiếng Anh thuật ngữ này được lưu hành chỉ trong năm những năm 1940s trong các tác phẩm của Bukofzer và Paul Henry Lang.
Cho tới những năm 1960 vẫn còn có những tranh chấp đáng kể trong học thuật âm nhạc, đặc biệt là ở Pháp và Anh, cho dù ý nghĩa đầy đủ được gộp lại dưới một đề mục duy nhất của những tác giả khác nhau như Jacopo Peri, Domenico Scarlatti và JS Bach. Tuy nhiên thuật ngữ này đã trở nên rộng rãi và được chấp nhân cho các phạm vi rộng lớn của âm nhạc. Nó có thể hữu ích để phân biệt từ sau thời kì Phục Hưng và theo âm nhạc cổ điển về sau của lịch sử.
Lịch sử
Thời kì Baroque được chia làm 3 giai đoạn: Đầu giữa và sau tương ứng với các khoảng năm 1580-1630, 1630-1680, 1680-1750.
- Âm nhạc đầu thời kì Baroque (1580-1630)
Florentine Camerata là một nhóm các nhà nhân văn, nhạc sĩ, nhà thơ, trí thức vào cuối thời kì Phục Hưng, Florence dưới sự bảo trợ của Count Giovanni de‘ Bardi thảo luận và hướng dẫn các xu hướng trong nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc và kịch nghệ. Trong các cuộc thảo luận đến âm nhạc, họ dựa trên những lý tưởng của họ trên một nhận thức về nhạc kịch cổ điển (Hy Lạp cổ đại) có giá trị ngôn luận và diễn văn. Như vậy, họ từ chối sử dụng phức điệu và nhạc khí, và mô tả âm nhạc Hy Lạp cổ đại monody, trong đó bao gồm lối hát solo kèm theo kithara. Sớm nhận ra ý tưởng này, Jacopo Peri’s Dafne and L’Euridice, đánh dấu sự khởi đầu của Opera, dó đó phần nào tạo nên xúc tác cho nhạc Baroque.
Liên quan đến lý thuyết âm nhạc, việc sử dụng rộng rãi hơn của bass đại diện cho tầm quan trọng phát triển hài hòa như các nền tảng tuyến tính của âm sắc. Harmony là kết quả cuối cùng của đối âm, và bass là hình ảnh đại diện của những hòa âm thường được sử dụng trong hoạt động âm nhạc. Nhà soạn nhạc bắt đầu liên hệ bản thân với sự cung tiến, sử dụng các Tritone, nhận thức một quãng không ổn định để tạo ra sự bất thường. Đầu tư trong hòa âm cũng đã tồn tại giữa các nhà soạn nhạc nhất định trong thời kỳ Phục hưng, đáng chú ý là Carlo Gesualdo, tuy nhiên việc sử dụng hòa âm hướng tới âm giai, chứ không phải là phương thức, đánh dấu sự chuyển đổi từ thời Phục Hưng vào thời kì Baroque. Điều này dẫn tới ý tưởng rằng hợp âm, chứ khổng phải nốt đơn cung cấp một cảm giác đóng kín, một trong những ý tưởng cơ bản tạo ra âm giai.
Bằng cách kết hợp các khía cạnh mới của thành phần, Claudio Monteverdi đẩy mạnh quá trình chuyển đổi từ phong cách phục hưng thành âm nhạc của thời kỳ Baroque. Ông đã phát triển hai phong cách cá nhân của các sáng tác – di sản của âm sắc Phục Hưng (prima pratica) và các kỹ thuật bass line mới của Baroque (seconda pratica). Với các văn bản của vở opera L’Orfeo và L’incoronazione di Poppea giữa những người khác, Monteverdi gây sự chú ý đáng kể cho thể loại mới của opera.
- Âm nhạc giữa thời kì Baroque (1630-1680)
Sự gia tăng của các tòa án tập trung là một trong những đặc điểm kinh tế và chính trị của những gì thường được gắn nhãn “Thời kì tuyệt đối”, nhân cách Louis XIV của Pháp. Các phong cách của cung điện, và hệ thống tòa án của tập quán và nghệ thuật mà ông nuôi dưỡng trở thành mô hình cho phần còn lại của châu Âu. Sự gia tăng của nhà thờ và sự bảo trợ nhà nước đã tạo ra nhu cầu cho tổ chức âm nhạc đại chúng, như sự sẵn có ngày càng tăng của các công cụ tạo ra nhu cầu cho nhạc thính phòng.
Thời kỳ Baroque trung ở Ý được xác định bởi sự xuất hiện của các cantata, oratorio, và opera trong những năm 1630, và một khái niệm mới về giai điệu và hòa âm nâng trạng thái âm nhạc lên đến một trong những từ ngữ, mà trước đây đã được coi là ưu việt. Sự hoa mỹ, hát ngâm monody (opera nữ soprano) của đầu thời kì baroque nhường nhỗ cho sự đơn giản và tinh tế hơn với phong cách du dương. Những giai điệu này được xây dựng ngắn gọn và cadential ngắn gọn với ý tưởng này dựa trên các mẫu múa cách điệu được rút ra từ sarabande hoặc courante. Hòa âm cũng có thể đơn giản hơn thời kì đầu monody Baroque, và các dòng bassline đi kèm là tích hợp nhiều hơn với giai điệu, tạo ra sự đối âm tương đương một phần của nó mà sau này dẫn đến hình thành các mong muốn bass mở đầu của giai điệu aria (bài hát opera dài kèm theo giọng solo). Đơn giản hóa hòa âm cũng dẫn đến những mong muốn hình thức mới của sự khác biệt của những đoạn hát và aria. Các nhà sáng tác quan trọng của phong cách này là những người La Mã như Luigi Rossi và Giacomo Carissimi, những người nhạc sĩ chủ đạo của các bản cantata và oratorio, tương ứng Venetian Francesco Cavalli, những soạn giả chủ yếu nhạc opera. Các nhà chuyên môn quan trọng của thể loại này sau này có thể kể đến Antonio Cesti, Giovanni Legrenzi và Alessandro Stradella.
Giữa thời kì Baroque hoàn toàn không hề mang bộ dạng nào về công tác lý luận của Johann Fux, người đã hệ thống hóa các đặc điểm nghiêm khắc về đối âm của thời kì trước trong Gradus ad Paranssum (1725)
Một ví dụ ưu việt về soạn gia theo phong cách cung đình là Jean-Baptiste Lully. Ông đã mua bằng sáng chế từ chế độ quân chủ, là nhà soạn nhạc duy nhất của những vỡ opera dành cho vua chúa và ngăn chặn người khác có những vỡ opera ra dàn dựng tương tự. Ông đã hoàn thành 15 vỡ và bỏ lại 1 vỡ chưa hoàn thành là Achille et Polyxène.
Về âm nhạc, ông đã không thiết lập các chuẩn mực chuỗi thống trị của dàn nhạc giao hưởng được thừa hưởng từ Opera Ý và năm phần bố trí đặc trưng của Pháp (violin,viola, bass) được sử dụng trong các vở ballet từ thời Louis XIII. Ông đã giới thiệu quần thể mới vào nhà hát bởi phần trên âm sắc của recorder (một loài kèn, sáo cổ), oboes và phần âm bass của bassoons. Kèn và kèn đồng cũng được bổ sung vào những khung cảnh anh hùng.
Arcangelo Corelli được nhớ đến có ảnh hưởng đối với thành tích của mình ở khía cạnh khác của âm nhạc kỹ thuật, là một nghệ sĩ vĩ cầm người tổ chức kỹ thuật violin và phương pháp sư phạm và trong nhạc cụ thuần túy, đặc biệt là vận động và phát triển của Grosso concerto của ông. Trong khi đó, Lully được thế vững chắc từ cung đình còn Corelli là một trong những nhà soạn nhạc đầu tiên công bố rộng rãi và có âm nhạc của mình biểu diễn trên khắp châu Âu. Như với phong cách và tổ chức opera của Lully, Grosso Concerto được xây dựng dựa trên sự tương phản mạnh mẽ giữa người chơi trong dàn nhạc và người chơi cũng từng bộ phận nhỏ hơn tham gia trong dàn nhạc. Cơ năng là sự phân bật với quá trình chuyển đổi từ lớn đến đến mềm mại và ngược lại. Phần nhanh và phần chậm được đặt cạnh nhau, nổi bật trong số học trò của ông là Antonio Vivaldi, người sau này gồm hang trăm công trình dựa trên các nguyên tắc trong các bản bộ ba sonata và concerto của Corelli.
Ngược lại với các nhà soạn nhạc, Dieterich Buxtehude không phải soạn gia của cung đình mà thay vào đó là nhạc sĩ nhà thờ, giữ vai trò là organist và Werkmeister (bậc thầy xây dựng tổng thể) ở Marienkirche tại Lübeck. Nhiệm vụ Werkmeister của ông tại đây liên quan đến thư ký, thủ quỹ, quản lý và kinh doanh của nhà thờ, trong khi vị trí organist của mình chơi cho tất cả những nhu cầu chủ yếu, đôi khi phối hợp với các nhạc công, ca sĩ bên ngoài nhà thờ, những người cũng được trả tiền bởi nhà thờ. Bên ngoài các nhiệm vụ giáo hội chính thức của mình, ông đã tổ chức và chỉ đạo một loạt buổi hòa nhạc được gọi là Abendmusiken, trong đó bao gồm biểu diễn các tác phẩm kịch tôn giáo được những người đương thời của ông coi như tương đương với những vở opera.
- Cuối thời kì Baroque
Công việc của George Frederic Handel, Johann Sebastian Bach và đương thời của họ, bao gồm Domenico Scarlatti, Antonio Vivaldi, Jean-Philippe Rameau, Georg Philipp Telemann, và những người đưa kỷ nguyên Baroque đến đỉnh cao của nó.
Thông qua các tác phẩm của Johann Fux, phong cách phục hưng phức điệu, được làm cơ sở cho việc nghiên cứu các sáng tác.
Tiếp tục công trình, Handel vay mượn từ người khác và thường sử dụng lại với chất riêng của mình. Ông cũng được biết đến với tác phẩm làm lại nổi tiếng như Messiah, được công chiếu vào năm 1742, cho các ca sĩ và nhạc sĩ.
Nhạc cụ thờ kì Baroque:
Strings (bộ dây): Violino Piccolo, Violin, Viol, Viola,Viola d’amore, Viola pamposa, Tenor violin, Cello, Bass violin, Contrabass, Lute, Theorbo, Archlute, Mandora, Bandora, Angélique, Mandolin, Cittern, Guitar, Harp, Hurdy-gurdy.
Woodwinds (bộ hơi): Baroque Flute, Chalumeau, Cortol (được biết như Cortholt, Curtall, cùng họ Oboe), Dulcian, Musette de cour, Baroque oboe, Rackett, Recorder, Basson.
Brasses (kèn đồng): Cornett, Natural horn, Baroque Trumpet, Tromba da tirarsi, Flatt trumpet, Serpent, Sackbut, Trombone
Keyboards (bộ phím): Clavichord, Tangent Piano, Fortepiano, Harpsichord, Organ
Percussion (bộ gõ):Trống Timpano, Snare, Trống Tenor, Tambourine, Castanets.
Phong cách và hình thức
Bộ khiêu vũ: Hình thức baroque đặc trưng là các bộ khiêu vũ. Một số bộ khiêu vũ của Bach được gọi là Partitas, mặc dù thuật ngữ này cũng được sử dụng cho các bộ sưu tập khác của dòng này. Bộ khiêu vũ thường bao gồm các điệu nhảy sau:
Overture: Bao gồm 4 điệu cơ bản
- Allemande
- Courante
- Sarabande
- Gigue
4 điệu nhảy này được làm mới ở thế kỉ 17 về sau được được bổ sung them một số điệu giữa Sarabande và Gigue như:
- Gavotte
- Bourrée
- Minuet
- Passepied
- Rigaudon
Một số hình thức khác:
- Entrée (ballet)
- Basso Continuo
- The Concerto và concerto grosso
- Monody
- Homophony
- Nhạc kịch Opera
- Kết hợp nhạc giao hưởng và vocal như oratorio và cantara
- Kĩ thuật nhạc cụ mới như tremolo và pizzicato
- The da capo aria
- The ritornello
- The Concertato
- Các thuật trang hoàng.
Thể loại
Vocal:
- Opera (Zarzuela, Opera seria, Opéra comique, Opera-ballet)
- Masque
- Oratorio
- Passion
- Cantata
- Mass
- Anthem
- Monody
- Chorale
Hòa Tấu:
- Chorale composition
- Concerto grosso
- Fugue
- Suite (Allemande, Courante, Sarabande, Gigue, Gavotte, Minuet)
- Sonata (Sonata da camera, Sonata da Chiesa, Trio Sonata)
- Partita
- Canzona
- Sinfonia
- Fantasia
- Ricercar
- Toccata
- Prelude
- Chaconne
- Passacaglia
- Chorale Prelude
- Stylus fantasticus
Sau bài viết này ADAM Muzic mong muốn cung cấp thêm cho các bạn cái nhìn khái quát về thời kì âm nhạc Baroque cũng như âm nhạc cổ điển.
Bài viết sử dụng hình ảnh và tư liệu từ Wikipedia, Google