Chính vì có nguồn gốc như vậy, nên Jazz thuở sơ khai là sự kết hợp của nhiều yếu tố:

  • Tiết tấu âm nhạc Châu Phi (bắt nguồn là blue, ragtime).
  • Các bài ca nô lệ gốc Phi hát khi họ lao động trên đất Mỹ
  • Âm nhạc đặc trưng của New Orleans trong các cuộc diễu binh, hành quân và tang lễ.
  • Và cả một số yếu tố âm nhạc Châu Âu…

Những bài hát thường được người nông dân da đen hát trong quá trình lao động. Jazz có lịch sử kéo dài hơn 100 năm, vì có nguồn gốc như vậy nên rất khó để có thể định nghĩa hoàn hảo.

Jazz là thể loại âm nhạc dựa trên sự ứng biến tài tình và sự cấp bách nhưng lại rất nhịp nhàng trong giai điệu. Sự ứng biến là cách mà các nghệ sĩ thể hiên bản thân và phải sáng tạo âm nhạc theo cách ngẫu hứng riêng của mình.

II. Quá trình phát triển hơn 100 năm của nhạc Jazz

  • Đầu thập niên 1910, New Orleans jazz khởi đầu kết hợp đội hình brass band quân đội, điệu quadrille, biguine, ragtime và blues với ứng tác phức điệu tập thể.
  • Thập niên 1930, swing big band, Kansas City jazz, và Gypsy jazz là những phong cách nổi trội.
  • Vào thập niên 1940, Bebop xuất hiện đưa jazz từ thứ âm nhạc đại chúng nhảy nhót thành “âm nhạc của nhạc công”, với nhịp độ nhanh và ứng tác dựa trên hợp âm.
  • Vào cuối thập niên 1940, Cool jazz phát triển giới thiệu loại âm nhạc bình tĩnh và mượt mà hơn với những dòng giai điệu dài.
  • Thập niên 1950, là sự nổi lên của free jazz, khi nhạc công chơi nhạc mà không cần beat hay cấu trúc nào.
  • Và hard bop, mang theo ảnh hưởng từ rhythm and blues, nhạc Phúc âm, và blues, đặc biệt ở cách chơi piano và saxophone.
  • Modal jazz ra đời cũng vào những năm 1950, sử dụng mode làm cơ sở của cấu trúc âm nhạc và ứng tác.
  • Jazz-rock và jazz fusion xuất hiện vào cuối thập niên 1960 – đầu 1970, kết hợp ứng tác jazz với phần nhịp (rhythm), nhạc cụ điện và âm thanh được khuếch đại của rock.
  • Thập niên 1980, smooth jazz trở nên thành công, có được nhiều lượt phát trên radio cũng như sự chú ý từ đại chúng.

III. Âm nhạc Jazz ngẫu hứng và nghệ sĩ

Nói về tác phẩm của nhạc Jazz, theo cuốn Jazz – Rook – Pop của nhiều tác giả, nhạc sĩ Andre Hodeir viết:

“Tác phẩm nhạc Jazz, thường khi chỉ là một giây lát âm nhạc bay đi mất vào quên lãng, được may mắn cứu sống nhờ ở băng từ tính thu thanh, mà sau này sớm hay muộn được ghi lại thì đã khác trước mất rồi. Sự nghiệp của người nghệ sĩ Jazz chứa chất hàng triệu những giây lát âm nhạc, xuất hiện rồi mất đi giữa lúc nửa đêm cho đến rạng đông tảng sáng, trong làn khói của một hộp đêm ở New York, London hay Chicago…”.

Quả thực vậy, tác giả có thể ngẫu hứng sáng tác ra chủ đề, người nghệ sĩ cũng có thể ngẫu hứng ra bài hát trên chủ đề đã có sẵn theo cách riêng để hoàn thiện bài hát. Việc sáng tác một bài hát gần như được gắn liền với nghệ sĩ biểu diễn, vì vậy đặc trưng của Jazz là “sự ứng tấu ngẫu nhiên của các nghệ sĩ nhạc”.

Nhạc sĩ Jelly Roll Morton viết: “Nhạc Jazz thuộc về một phong cách thể hiện chứ không thuộc về sáng tác”.

Jazz và nhạc cổ điển giống nhau ở điểm là lúc bắt đầu trình diễn sẽ thể hiện đúng theo chủ đề. Nhưng với âm nhạc cổ điển, dòng nhạc mà người chơi phải tuân theo các quy tắc được xác lập bởi người nhạc sĩ. Chẳng hạn, khi các nghệ sĩ khác nhau biểu diễn cùng một tác phẩm giao hưởng của nhạc sĩ Beethoven, thì họ đều phải thể hiện thật chính xác và chi tiết những gì nhạc sĩ đã viết trong tác phẩm.Còn ở Jazz thì đoạn sau lại là sự ngẫu hứng của nghệ sĩ. Vì vậy, có thể cùng một bài nhạc nhưng không có màn trình diễn nào giống hoàn toàn với màn trình diễn nào.

Những dàn nhạc lớn và chuyên nghiệp, mặc dù đã có phần đệm được hòa âm phối khí chỉnh chu thì những người độc tấu vẫn được toàn quyền tự do biến tấu, sáng tạo với đoạn nhạc solo của chính họ. Nhưng nếu các nghệ sĩ nhạc Jazz biến tấu ngẫu nhiên liên tục bất kể thời điểm sẽ tạo thành một sự hỗn loạn trong giai điệu. Chính vì vậy, các nghệ sĩ độc tấu và những người đệm theo luôn có chung một số các chủ đề quen thuộc, lấy đó làm nền tảng để phối hợp ăn ý tạo ra tác phẩm nhạc hoàn chỉnh và mới mẻ, ngẫu hứng nhưng vẫn hòa quyện.

IV. Những nét đặc trưng của nhạc Jazz

Giai điệu Jazz được xây dựng chủ yếu trên thang âm có những “blue notes” (nốt ở quãng ba và nốt ở quãng bảy của thang âm này bị giảm về cao độ). Trong cách thể hiện kỹ thuật sử dụng nhạc cụ bắt nguồn trực tiếp từ lối hát của người da đen. Các nhạc công đã sáng tạo ra loại kỹ thuật khiến cho các nhạc cụ vang lên như giọng người: đó là đưa vào những nốt hóa, những nốt hoa mỹ, nốt “Blues”, glissando (vuốt nốt) và vibrato.

Trong nhạc Jazz luôn cho chúng ta thấy được điều mới mẻ, khác lạ so với các thể loại khác về nhiều khía cạnh âm nhạc như: hòa thanh, giai điệu, tiết tấu, cách thể hiện. Ở Jazz là sự tự do trong âm nhạc, đa màu sắc, mỗi bài hát mỗi nghệ sĩ là một màu sắc dấu ấn riêng.

V. Tiết tấu trong nhạc Jazz

Một đặc điểm đặc trưng của Jazz đó là tiết tấu. Khi chúng ta so sánh giữa tiết tấu cổ điển và tiết tấu nhạc Jazz thi có thể thấy sự khác biệt hoàn toàn. Tiết tấu cổ điển thường là các dạng tiết tấu không quá phức tạp nghe thuận tai và chú trọng phần kĩ thuật chạy ngón. Jazz chú trọng đến các tiết tấu đảo phách, nghịch phách và giật. Chính vì vậy, dòng nhạc Jazz khó khi nào bị nhầm lẫn với các dòng nhạc khác.

Có thể nhận ra nhịp đập tiết tấu đặc thù của dòng nhạc này là các tiết nhịp 2 phách trong hành khúc nhà binh được thay thế bằng nhịp 4 phách, nhấn mạnh phách 2 và phách 4 trong ô nhịp.

Sử dụng nhiều các tiết tấu đảo phách, nghịch phách và nhấn vào các phách nhẹ là điểm đặc trưng ở các tác phẩm nhạc Jazz. Tiết tấu này được sử dụng ở cả hai tay hoặc tay phải đảo phách còn tay trái giữ nhịp. Trong mỗi trường phái Jazz đều có các dạng tiết tấu đặc thù để phân biệt chúng.

VI. Hoà thanh trong nhạc Jazz

Một tác phẩm nhạc hoàn thiện cần phải có vai trò của hòa thanh để làm tác phẩm âm nhạc có cấu trúc, giai điệu rõ nghĩa và màu sắc riêng. Chính vì vậy, nhạc Jazz cũng rất chú trọng vào phần hòa thanh.

Vòng hòa thanh của dòng nhạc Jazz phức tạp hơn nhiều so với quy luật cổ điển. Cách sử dụng hợp âm đặc trưng trong hòa thanh nhạc Jazz bao gồm tăng, giảm, hợp âm 7, hợp âm thêm các âm ngoài hợp âm như âm 9, âm 13, âm 11, …

Hòa thanh trong dòng nhạc Jazz được chuyển liên tiếp từ ô nhịp này sang ô nhịp khác với các hòa thanh khác nhau. Do đó, có thể mỗi một ô nhịp là một hòa thanh. Hòa thanh kết đặc trưng của Jazz là bậc II – V – I, khác biệt rất lớn so với hòa thanh kết truyền thống IV – V – I. Để tạo thêm nhiều màu sắc cho tác phẩm, các nghệ sĩ thường chú trọng vào tăng giảm các các hợp âm. Người nghệ sĩ chơi nhạc Jazz hoàn toàn có thể ngẫu hứng tự do sử dụng các vòng hòa thanh để tạo cho người nghe cảm giác hay và mới lạ, miễn sao vòng hòa thanh đó không đi lạc quá xa so với chủ đề của tác phẩm.

VII. Nhạc cụ chơi Jazz

Những nhạc cụ chơi trong nhạc jazz thường là những nhạc cụ của châu Âu nhưng cách diễn tấu lại mang phong cách Mỹ. Bao gồm:

  • Kèn trumpet, cornet, trombone, saxophone, clarinette.
  • Bộ trống và các nhạc cụ gõ.
  • Ngoài ra còn có các loại nhạc cụ khác như piano; banjo; guitar; contrebass…

Phong cách thể hiện nhạc blues và jazz có chung một cội nguồn từ những bài ca tôn giáo, những bản hợp xướng của đạo Tin Lành.